Hoàn thiện thể chế - Đòn bẩy cho ngành Dầu khí phát triển
15.06.2022
Chiều 13/6, tại Hà Nội, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm trực tuyến: "Hoàn thiện thể chế - Đòn bẩy cho ngành Dầu khí phát triển".
Dự tọa đàm có ông Phan Đức Hiếu - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; ông Nguyễn Việt Sơn - Vụ trưởng Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương; TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh; TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế; bà Phạm Thị Thanh Huyền - Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân.
Các đại biểu tham dự tọa đàm
Về phía Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) có T.S Nguyễn Quốc Thập - Phó Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam; ông Vũ Đào Minh - Phó Trưởng ban Khai thác Dầu khí Tập đoàn; bà Trần Thái Ninh - Phó Trưởng ban Quản lý Hợp đồng Dầu khí; cùng đại diện Ban Truyền thông và Văn hóa doanh nghiệp Tập đoàn.
Luật Dầu khí được ban hành ngày 6/7/1993 và sửa đổi, bổ sung vào các năm: 2000 và 2008. Luật Dầu khí và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành Dầu khí trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách Nhà nước (NSNN) và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển
Tuy vậy, quá trình triển khai thi hành Luật cũng bộc lộ một số vướng mắc, bất cập. Đó là, một số vấn đề thực tế phát sinh mang tính đặc thù của hoạt động dầu khí nhưng chưa được quy định cụ thể bởi Luật Dầu khí và các văn bản hướng dẫn hoặc một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, một số vấn đề được quy định trong Luật Dầu khí chưa bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật khác. Một số vấn đề đang được quy định tại các văn bản dưới Luật cần được luật hóa để nâng cao hiệu quả thi hành của Luật.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý, thực trạng thi hành pháp luật và bối cảnh hiện nay, việc xây dựng Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi) là điều hết sức cần thiết. Hoàn thiện thể chế là đòn bẩy quan trọng cho ngành Dầu khí phát triển.
Toàn cảnh buổi tọa đàm
Phát biểu đề dẫn buổi toạ đàm, Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Phạm Thị Thanh Huyền cho hay, vào ngày 15/6 sắp tới, Quốc hội sẽ thảo luận về Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi). Trong bối cảnh như vậy, Tọa đàm “Hoàn thiện thể chế - Đòn bẩy cho ngành Dầu khí phát triển” mong muốn những phân tích, đề xuất chính sách của các chuyên gia, nhà quản lý… sẽ là nguồn thông tin tham khảo tin cậy và hữu ích đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Từ đó, góp phần hoàn thiện Luật Dầu khí (sửa đổi) với nguyên tắc xuyên suốt mà Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn mạnh là: “Xây dựng Luật Dầu khí để phát triển ngành Dầu khí với mục tiêu phát triển kinh tế nhưng gắn chặt với bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển, phù hợp với luật pháp quốc tế; bảo đảm an toàn cho người, tài sản, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư khi tham gia điều tra cơ bản và hoạt động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam”.
Như đã biết, Luật Dầu khí và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành Dầu khí trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, đóng góp lớn vào nguồn thu NSNN và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Để hiểu hơn về vai trò của ngành Dầu khí trong nền kinh tế nước ta và trong giai đoạn hiện nay, ngành Dầu khí đã phát huy tiềm năng, thế mạnh ra sao, ông Nguyễn Việt Sơn - Vụ trưởng Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương khẳng định, dầu khí có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Hiện ngành Dầu khí vẫn là ngành mũi nhọn của hầu hết các quốc gia, cung cấp nguồn năng lượng và nguyên liệu quan trọng bậc nhất phục vụ sản xuất điện, nhiên liệu cho giao thông vận tải và các ngành kinh tế, cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp khác như: hóa chất, phân bón…
Ông Nguyễn Việt Sơn - Vụ trưởng Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương
Đối với Việt Nam, vai trò của ngành Dầu khí càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những đóng góp thời gian qua, có thể nói ngành Dầu khí chính là ngành kinh tế mũi nhọn, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, bảo đảm tăng trưởng kinh tế của đất nước nhanh và bền vững, cũng như bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển, đồng thời có những đóng góp quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế... Cụ thể là:
Thứ nhất, ngành Dầu khí đã khai thác được khoảng 420 triệu tấn dầu trong nước và khoảng 170 tỷ m3 khí, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đóng góp quan trọng cho NSNN. Trong giai đoạn 2006-2015, Petrovietnam - doanh nghiệp nòng cốt của ngành Dầu khí đóng góp trung bình 20-25% tổng thu NSNN, 18-25% GDP cả nước. Từ năm 2015 đến nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động khó lượng và mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, Petrovietnam vẫn đóng góp khoảng 10% tổng thu NSNN (trong đó từ dầu thô là 5-6%), 10-13% GDP cả nước. Bên cạnh đó, chúng ta đã xây dựng được hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ từ tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đến phát triển công nghiệp khí - điện - chế biến và dịch vụ dầu khí, trong đó, lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là lĩnh vực cốt lõi, đồng thời đào tạo được đội ngũ cán bộ, người lao động ngành Dầu khí hùng hậu có trình độ cao.
Thứ hai, với hơn 100 hợp đồng dầu khí đã được ký kết từ năm 1981 đến nay (trong đó hiện còn 51 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực), hoạt động dầu khí đã bao phủ hầu hết thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế, đóng góp quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông.
Về vai trò và sự phát triển của ngành Dầu khí trong thời gian tới, tại Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 23/7/2015 về định hướng chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Bộ Chính trị đã khẳng định: “Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược năng lượng quốc gia, chiến lược biển Việt Nam, bảo đảm an ninh năng lượng và bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc”.
Mới đây, tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam diễn ra vào ngày 5/6/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, định hướng phát triển của Việt Nam là phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế sâu rộng trong tình hình mới. “Như vậy, theo tôi, để có thể phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế, chúng ta phải có sự tự chủ về năng lượng. Mặc dù Việt Nam là nước nhập khẩu năng lượng, song việc bảo đảm tự chủ phần lớn nguồn cung năng lượng cho đất nước, trong đó có dầu khí là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng năng lượng và giá năng lượng tăng cao”, ông Nguyễn Việt Sơn nhấn mạnh.
Cũng theo Vụ trưởng Nguyễn Việt Sơn, qua đánh giá, đến nay, tổng trữ lượng dầu khí đã phát hiện trên thềm lục địa Việt Nam vào khoảng trên 1,5 tỷ m3 quy dầu. Trữ lượng dầu khí có thể thu hồi còn lại khoảng 800 triệu m3 quy dầu (trong đó khoảng 300 triệu m3 dầu và 500 triệu m3 khí), tuy nhiên việc khai thác nguồn tài nguyên này ngày càng khó khăn do các mỏ nằm ở vùng nước sâu, xa bờ, địa chất phức tạp.
Với nguồn lực lớn đã được đầu tư thời gian qua (về vốn, cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị công nghệ, con người, trình độ quản lý,...) và tiềm năng dầu khí đã phát hiện nêu trên, ngành Dầu khí còn nhiều dư địa phát triển để có thể đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đóng góp vào nguồn thu NSNN.
“Song để phát huy tiềm năng, thế mạnh của ngành Dầu khí trong tình hình mới, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, trước mắt là sớm ban hành Luật Dầu khí (sửa đổi) là đòn bẩy cho ngành Dầu khí phát triển. Vẫn còn dư địa phát triển trong tương lai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, sớm ban hành Luật Dầu khí (sửa đổi) là rất cần thiết”, ông Sơn nói.
Nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp về khung pháp lý là cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, trong đó có hoạt động dầu khí, T.S Nguyễn Quốc Thập nhắc lại, Luật Dầu khí ra đời năm 1993, sửa đổi lần đầu năm 2000, lần thứ hai năm 2008 đã góp phần giúp cho hoạt động ngành Dầu khí phù hợp với khung pháp lý, đóng góp cho ngân sách, kinh tế phát triển, đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài, và bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền biển đảo.
TS. Nguyễn Quốc Thập
Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện, kiện toàn Luật Dầu khí bởi: Thứ nhất, một số luật ra đời sau như Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp đều có sự chồng chéo. Nếu không xử lý kịp thời, hoạt động của ngành Dầu khí sẽ phải đối mặt với sự giảm hấp dẫn và thu hút nhà đầu tư, bởi vùng hoạt động của chúng ta đang bị thu hẹp dần.
Thứ hai, tiềm năng dầu khí vẫn được khẳng định nhưng chưa đạt mức như kỳ vọng. Các dự án phát triển theo chuỗi đang gặp khó khăn, bởi phải tích hợp nhiều khung pháp lý, tích hợp rất nhiều luật, dẫn đến sự chậm trễ không mong muốn.
Thứ ba, sản lượng dầu đang suy giảm, nhưng chưa có cách sớm đưa các mỏ, mỏ cận biên để bù đắp cho sự suy giảm đáng kể về sản lượng hiện nay. Đó là những điểm ngẽn mà chúng ta đang phải đối mặt, cần tích hợp với tất cả các luật, làm sao giúp cho hoạt động dầu khí đạt được yêu cầu như mong đợi.
Để tạo lực hút với nhà đầu tư, TS. Nguyễn Quốc Thập bày tỏ sự tán thành về 6 nhóm chính sách mà ông Nguyễn Việt Sơn đã trao đổi.
TS. Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh, Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) đã 8 lần điều chỉnh, trong 6 nhóm chính sách, chúng ta đã phần nào đáp ứng được mục tiêu ưu đãi, thu hút, loại bỏ nhiều rào cản cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, Dự thảo luật mới chỉ đáp ứng được các tình huống tĩnh, còn các tình huống linh hoạt thì chưa đạt. Định nghĩa về khuyến khích đầu tư rất ổn, nhưng ở góc độ triển khai hoạt động thì chưa đủ. Ví dụ trường hợp nhà đầu tư vào ký kết hợp đồng dầu khí, sau khi triển khai giai đoạn 1, giai đoạn 2 thì phát hiện ra mỏ có trữ lượng ít. Nghĩa là điều kiện như ban đầu của hợp đồng không đủ hấp dẫn để nhà đầu tư tiếp tục đầu tư khai thác, có được xem xét để điều chỉnh sang dạng đặc biệt khuyến khích hay không? Chúng tôi rất muốn Luật sửa đổi lần này phải có khung mở hơn, và khi triển khai nghị định hay văn bản hướng dẫn có thể đảm đương được vấn đề đó. Phải có khung cụ thể cho từng đối tượng cụ thể mới đáp ứng được mong muốn "đánh thức" hết tiềm năng về tài nguyên.
Về phân cấp phân quyền, TS. Nguyễn Quốc Thập cho rằng đây là bước tiến rất lớn khi vấn đề này được Ban soạn thảo xem xét, đưa vào Dự thảo: “Chúng tôi đề xuất Thủ tướng ký quyết định những dự án từ 3-5 tỷ USD, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền ký quyết định những dự án 1-3 tỷ USD, còn những dự án dưới 1 tỷ USD thuộc về nhiệm vụ của Petrovietnam. Tuy nhiên, phân cấp hiện Bộ Công Thương phê duyệt trữ lượng, Thủ tướng phê duyệt hợp đồng dầu khí ban đầu. Đây đã là bước tiến lớn rồi”.
Về hoạt động ngành Dầu khí, đề xuất cần lưu ý thêm những tình huống "động", tình huống thay đổi. Ví dụ như giá dầu xuống thấp, giá trị dự án giảm sút, cần có chính sách điều tiết cho giá dầu.
Về thủ tục đầu tư, Điều 4 Luật Đầu tư quy định: Dầu khí không phải là đối tượng để thực hiện theo Luật Đầu tư. Nhưng Luật Dầu khí không nói đến đầu tư. Chính vì vướng mắc này, các dự án chậm lại trong quá trình triển khai bởi thủ tục đầu tư. Tôi mong muốn Luật Dầu khí (sửa đổi) lần này thể hiện được quyền và trách nhiệm của Petrovietnam.
Từng bước hoàn thiện Luật Dầu khí
Cùng quan điểm, TS. Phan Đức Hiếu bày tỏ nhất trí trước những đánh giá về vị trí vai trò của ngành Dầu khí hiện tại và những kỳ vọng trong tương lai, cũng như việc cần thiết trong việc hoàn thiện thể chế.
Với tư cách là thành viên của cơ quan thẩm tra dự án Luật, để làm rõ hơn việc sửa đổi, bổ sung lần này đã thể hiện được “đặc thù dầu khí” hay chưa, TS. Phan Đức Hiếu cho rằng, Ban soạn thảo cần đề cao hơn nữa về tính thị trường. Bởi chính sách ưu đãi đầu tư theo Luật Dầu khí là một cách tiếp cận đa chiều, không phải chỉ những biện pháp ưu đãi trực tiếp mà cải thiện môi trường kinh doanh chính là biện pháp ưu đãi đầu tư rất thiết thực và dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) đang làm rất tốt. Sự cạnh tranh về môi trường kinh doanh chính là biện pháp ưu đãi đầu tư thiết thực nhất, công bằng nhất.
T.S Phan Đức Hiếu
Do tính chất đặc thù từ dưới biển lên bờ, liên quan nhiều luật lệ khác nhau, áp dụng cả hệ thống luật, dẫn đến trùng lặp, chồng chéo, gánh nặng, sửa đổi phải phù hợp.
Liên quan đến chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp của dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) lần này, T.S Phan Đức Hiếu thống nhất với mục tiêu nhưng đặt yêu cầu cao hơn là chúng ta phải thực sự có một hệ thống ưu đãi đầu tư cạnh tranh và phải dài hạn, sẽ không lạc hậu ngay sau khi chúng ta ban hành luật.
Như vậy, dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) phải có tính linh hoạt, trên cơ sở nguyên tắc hài hòa lợi ích và có thể tiếp cận theo từng dự án, từng nhà đầu tư vào trong từng trường hợp.
Trong dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) lần này đã bổ sung một chương quy định về điều tra cơ bản, trong đó nêu rất rõ Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động điều tra cơ bản và Nhà nước cung cấp ngân sách một phần. Nhưng nếu thiết kế chính sách ưu đãi đầu tư theo quy định của luật này, mới chỉ áp dụng cho hoạt động dầu khí. Có nghĩa rằng, hoạt động điều tra cơ bản chưa nằm trong phạm vi của chính sách ưu đãi đầu tư.
Ông Đoàn Văn Thuần - Trưởng bộ phận Nghiên cứu kinh tế, Viện Dầu khí Việt Nam chia sẻ thêm, việc sửa đổi Luật Dầu khí lần này sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý, môi trường đầu tư cạnh tranh toàn diện, không chỉ về mặt cơ chế tài chính mà còn ở phân cấp, phân quyền cho công tác đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, đặc biệt là đơn giản hóa các thủ tục.
Ông Đoàn Văn Thuần - Trưởng bộ phận Nghiên cứu kinh tế, Viện Dầu khí Việt Nam
Theo Luật Dầu khí hiện hành, hầu hết các quy trình liên quan, khi triển khai các hợp đồng dầu khí đều phải được Thủ tướng phê duyệt. Tuy nhiên, như các đại biểu khác đã chia sẻ, nội dung này hiện nay đã được phân quyền cho cơ quan quản lý nhà nước - Bộ Công Thương phê duyệt: từ báo cáo chất lượng, báo cáo phát triển mỏ… là pháp lý cao nhất để nhà đầu tư triển khai hoạt động dầu khí.
Để báo cáo phát triển mỏ được duyệt, dự thảo luật lần này cũng đề xuất kế hoạch phát triển mỏ đại cương sẽ phân cấp cho Petrovietnam được phê duyệt. Có thể nói, đây cũng là một bước "cách mạng", phù hợp hơn với thông lệ dầu khí quốc tế và chủ trương phân cấp, phân quyền và cải cách thủ tục hành chính. Về thông lệ dầu khí quốc tế, nghiên cứu của Viện Dầu khí Việt Nam ở một số quốc gia trong khu vực như Malaysia, Indonesia hay Na Uy, cơ quan quản lý nhà nước cũng hầu hết phê duyệt quy trình triển khai này.
Đối với chương trình công tác ngân sách hoặc các hoạt động kiểm toán của Petrovietnam, câu hỏi đặt ra là những vấn đề này có dẫn đến xung đột lợi ích hay không, khi mà Petrovietnam cũng đồng thời tham gia với cả vai trò là nhà đầu tư? Câu trả lời: có lẽ thời điểm hiện nay, việc lựa chọn mô hình vừa đồng thời là nhà đầu tư, vừa tham gia vai trò quản lý nhà nước vẫn là phù hợp.
Lý do vì, dù là quy trình, nhưng khi cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Công Thương phê duyệt, việc triển khai rồi giám sát các nhà thầu liên quan đến kỹ thuật của hoạt động dầu khí lại cần có cơ quan chuyên môn để thực hiện các hoạt động giám sát. Hoạt động giám sát, phù hợp nhất hiện nay chính là vai trò của Petrovietnam, để hỗ trợ Chính phủ trong việc quản lý công tác triển khai các hợp đồng dầu khí.
Nói thêm về dự thảo Luật, TS. Võ Trí Thành chia sẻ, về bản chất, dự thảo Luật sửa đổi lần này có những thay đổi rất căn cơ, không phải là bỏ chương này thêm chương kia mà có những thay đổi dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn của ngành Dầu khí với bối cảnh mới. Trong đó, có hẳn một chương mới quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của Petrovietnam.
TS. Võ Trí Thành
Đây là vấn đề cực khó khi Petrovietnam vừa ở vai Nhà nước, vừa ở vai doanh nghiệp. Làm thế nào để không "vừa đá bóng, vừa thổi còi" là việc không hề dễ dàng. Trên thế giới có những mô hình khác nhau, cũng có những mô hình vừa đóng vai trò nhà nước vừa đóng vai trò doanh nghiệp, cũng có mô hình thuần túy mang tính chất thị trường... mang tính cạnh tranh, tách biệt vai trò với nhà nước. Cũng có những mô hình giao thoa giữa các loại hình. Việc lựa chọn mô hình nào là do chúng ta.
Nếu chuyển hẳn mô hình mới, chi phí chuyển đổi không hề nhỏ. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn nhiều vấn đề khác như luật, xã hội... Dự thảo lần này tinh thần là sự kế thừa, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam vẫn đóng vai trò như một doanh nghiệp Nhà nước và cũng có vai trò quản lý Nhà nước.
Chúng ta cần tập trung nguồn lực để chỉnh lại chương này theo hướng chặt chẽ, có chuyển đổi căn bản. Tác động lan tỏa này không chỉ là ngành Dầu khí mà còn là vấn đề cải cách thể chế. Về dài hạn, với xu hướng chuyển dịch năng lượng hiện nay chúng ta phải xây dựng Luật Năng lượng, phải tính đến điều này trong 10-15 năm tới.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong
Chia sẻ thêm về vai trò của Ngành Dầu khí trong việc đảm bảo nhiệm vụ phát triển kinh tế và an ninh năng lượng, TS Nguyễn Minh Phong cho hay, việc hoàn thiện Luật Dầu khí sửa đổi căn cứ vào 3 điểm nhấn đó là, là vai trò thực tiễn của các ngành Dầu khí trong quá khứ cũng như hiện tại. Thứ hai là vai trò của luật với tư cách là một khung thể chế. Và thứ ba là bối cảnh mới, yêu cầu mới, mục tiêu mới.
Ba điểm này sẽ khẳng định sự cần thiết phải điều chỉnh luật, có thể coi là đường ray vững chắc tạo thể chế, môi trường cho Dầu khí luôn đi đúng hướng, điều đó còn thể hiện tầm nhìn, quyết tâm chính trị của quốc gia trong việc bảo vệ chủ quyền.
Bên cạnh đó, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng, Dầu khí là ngành nhiều rủi ro, nếu so với các ngành hoạt động trong đất liền thì rủi ro của ngành này gấp nhiều lần. Thứ nhất, là rủi ro về kỹ thuật. Dầu ở dưới sâu, soi, thăm dò chưa chắc đã đúng vị trí túi dầu. Vì thế, rủi ro kỹ thuật bao gồm có hay không có dầu. Không có dầu là mất hết tiền đầu tư. Khi thăm dò gặp trục trặc kỹ thuật, có thể gây tai nạn và thảm họa. Thứ hai, là rủi ro về thị trường. Thứ ba, là rủi ro về thời tiết, thiên tai cực đoan. Ở biển Đông hứng chịu rất nhiều bão, các dạng thời tiết cực đoan.
“Những ưu đãi với ngành này là cần thiết nhằm tạo ra sự định hướng, sự hấp dẫn cho các dự án, các nhà đầu tư cũng như tăng cơ sở để tăng quyết tâm đầu tư. Những ưu đãi hiện nay đã phù hợp với một số rủi ro. Tuy nhiên, khi xuất hiện những rủi ro mới, đặc biệt rủi ro về chính trị, địa chính trị thì cần sửa đổi luật để có những ưu đãi mới, giảm rủi ro cho ngành Dầu khí”, T.S Nguyễn Minh Phong nói.
Ngoài ra, theo T.S Nguyễn Minh Phong cũng cần thêm những ưu đãi về thuế, môi trường đầu tư, tạo sự thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Việc bảo hiểm tín dụng, bảo lãnh đầu tư cho các doanh nghiệp cũng sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh... Những chính sách cần được sử dụng đồng bộ, phù hợp để tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, đủ khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp đầu tư vào ngành Dầu khí, giúp các doanh nghiệp có thể phát triển bền vững. Theo tôi, đây là một trong những yếu tố được bắt đầu từ vai trò tư duy và phát triển thành thể chế, luật,… Đây chính là ý nghĩa của việc hoàn thiện luật, điều này đòi hỏi luật phải luôn luôn được làm mới, cập nhật thường xuyên để phát huy vai trò định hướng phát triển.
Tiếp nữa, luật về dầu khí còn thể hiện tầm nhìn, yêu cầu quốc gia về dầu khí và chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông. Đây được coi là mục tiêu quốc gia, quyết tâm chính trị của chúng ta.
Một đặc điểm nữa, Luật Dầu khí xuất hiện trễ hơn các luật khác. Rõ ràng, luật này có đặc điểm là xuất hiện, hoàn thiện trễ hơn so với cuộc sống. Thực tế, Luật Dầu khí còn trễ hơn so với những luật mới được xây dựng gần đây.
Với những đặc điểm nói trên, tôi cho rằng, sự điều chỉnh, sửa đổi để hoàn thiện Luật Dầu khí nhằm bảo đảm sự tương thích cũng vừa phù hợp với thực tiễn mới, bảo đảm tính hiệu quả, tính thực tiễn của luật lại vừa phù hợp với các luật mới ra đời, tránh sự vênh nhau là yêu cầu tất yếu.
Chuyên gia Nguyễn Minh Phong lưu ý, bối cảnh mới đặt ra những yêu cầu và mục đích mới. Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng giảm mỏ mới (tức là nguồn cung mới), giảm sản lượng mới, giảm hợp đồng mới và do đó kéo giảm cả tỷ trọng trong nền kinh tế. Tất nhiên, điều này một phần là do sự gia tăng tỷ trọng của các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh có một sự gia tăng ở rất nhiều yếu tố, trong đó, phải kể đến tăng về tổng cầu. Nhu cầu về xăng dầu tăng lên rất mạnh, trong thời gian qua. Tiếp đến là tăng giá, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi cuộc chiến của Nga và Ukraine và cuộc chiến xăng dầu trên thế giới. Cùng đó là trong bối cảnh tăng các tranh chấp căng thẳng biển Đông; tăng các chi phí cả về điều tra, thăm dò, khai thác, sản xuất,…
“Với tất cả những lý do trên, tôi cho rằng, việc hoàn thiện Luật Dầu khí để thu hút đầu tư mới, để khắc phục những hạn chế này là vô cùng cần thiết”, T.S Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh.
Nhóm chính sách "đòn bẩy" cho hoạt động dầu khí
Trong điều kiện hiện nay, khi tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới có nhiều thay đổi, vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng là yêu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia. Thực tế đó, cũng đặt ra yêu cầu cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý để hoạt động dầu khí phát triển.
Nội dung của dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) giải quyết 6 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 17/2021/QH15 về chương trình xây dựng pháp luật năm 2022. Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi) đã được Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ báo cáo trước Quốc hội vào ngày 3.6.2022 vừa qua. Cụ thể các chính sách gồm:
Thứ nhất, chính sách về bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí. Theo đó, thời hạn hợp đồng theo hướng linh hoạt, thống nhất thời hạn hợp đồng dầu khí đối với khai thác dầu và khai thác khí; xem xét gia hạn cho bên ký hợp đồng dầu khí hiện tại; mở rộng diện tích, việc hoàn trả, giữ lại diện tích hợp đồng, hợp nhất phát hiện dầu khí theo hướng linh hoạt hơn; quy định về nghĩa vụ tài chính về chuyển nhượng quyền lợi tham gia (trực tiếp, gián tiếp) theo hướng rõ ràng hơn; việc tiếp nhận mỏ dầu khí của nước chủ nhà; bổ sung hình thức hợp đồng tận thu tài nguyên dầu khí để nâng cao hệ số thu hồi và khai thác tận thu dầu khí, mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, chính sách quy định về điều tra cơ bản và dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí. Bổ sung quy định về điều tra cơ bản về dầu; các bước triển khai, phê duyệt đối với trong các hoạt động dầu khí; bổ sung quy định về việc ưu tiên áp dụng pháp luật dầu khí thực hiện các quy trình, thủ tục phê duyệt, bảo đảm tính tương đồng với hệ thống pháp luật về đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường; đồng thời, bổ sung quy định về phân cấp cho Bộ Công thương, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phù hợp với chủ trương chung của Nhà nước về đẩy mạnh phấn cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát.
Thứ ba, chính sách quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý. Xác định nguyên tắc chính, định hướng lớn triển khai dự án đầu tư theo chuỗi trong hoạt động dầu khí nhằm thu hút vốn đầu tư cho các dự án lớn, phù hợp với đặc thù ngành Dầu khí và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.
Thứ tư, chính sách quan trọng nhất, theo tôi chính là quy định về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí. Sửa đổi, bổ sung quy định về nguyên tắc xác định các lô dầu khí được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt; bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt để thu hút đầu tư vào hoạt động dầu khí (ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu dầu thô, mức thu hồi chi phí). Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt, để tận thu tài nguyên và đóng góp vào ngân sách nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định các điều kiện đặc biệt của hợp đồng dầu khí trên nguyên tắc kiểm soát chặt chẽ chi phí hoạt động dầu khí.
Thứ năm, chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí. Bổ sung quy định nguyên tắc về công tác kế toán, kiểm toán đối với hoạt động dầu khí và các quy định về quyết toán dự án dầu khí phù hợp với thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế cũng như xử lý được những chi phí rủi ro của hoạt động dầu khí.
Thứ sáu, chính sách về quy định khung việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.
https://petrovietnam.petrotimes.vn/