Dầu khí - ngành kinh tế có hàm lượng khoa học công nghệ cao
06.11.2018
Khoa học công nghệ (KHCN) là động lực để phát triển, đặc biệt trong quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành Dầu khí là ngành kinh tế kỹ thuật có hàm lượng KHCN cao.
Ngành Dầu khí là một trong những ngành kinh tế kỹ thuật có hàm lượng KHCN cao với việc ứng dụng từ rất sớm các công nghệ hiện đại như: Khảo sát địa chấn 2D, 3D, cơ sở dữ liệu lớn, điện toán đám mây… trong nhiều lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại trong các nhà máy chế biến đạm, lọc dầu, xử lý khí…
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã có 3 giải thưởng Hồ Chí Minh và 2 giải thưởng Nhà nước về KHCN. Công trình “Giải pháp thu gom và đưa khí vào bờ bằng đường ống trạng thái 3-pha” dài trên 350km từ mỏ Lan Tây vào bờ, công suất 7 tỉ m3/năm, vận hành an toàn 15 năm là biểu tượng về KHCN, một công trình KHCN tầm cỡ khu vực.
Việc tiếp tục ứng dụng công nghệ mới để giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của PVN trong thời gian hiện nay để tiếp cận với cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.
Thi công chế tạo giàn khoan tự nâng Tam Đảo 05
PVN đã chỉ đạo các doanh nghiệp (DN) thành viên nghiên cứu, tìm hiểu và tìm giải pháp đưa CMCN 4.0 vào sản xuất. Đến nay, PVN và các DN thành viên bước đầu đã có những triển khai ứng dụng KHCN rất hiệu quả. Các DN dầu khí đã chủ động triển khai nhiều giải pháp về KHCN phù hợp với đặc điểm tình hình của DN, tiêu biểu như Vietsovpetro, PVEP, BSR… Đặc biệt, PVN và các DN thành viên đang triển khai hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về dầu khí, thống nhất định dạng các tài liệu, tiến tới sử dụng, truy xuất tài liệu để ứng dụng vào công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí.
TSKH Nghiêm Vũ Khải - Phó chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam - đánh giá: Hiện nay, đội ngũ khoa học dầu khí có thể đáp ứng những nghiên cứu khoa học nếu có đầu tư tốt, có tầm nhìn chiến lược rõ ràng.
Lịch sử cho thấy, các cuộc CMCN đều liên quan tới sự thay đổi cơ bản về dạng năng lượng sơ cấp được sử dụng theo hướng sạch, tái tạo, hiệu quả và tạo năng suất cao hơn.
Khi dân số và chất lượng cuộc sống tăng lên, cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển giao thông vận tải, tăng trưởng kinh tế…, thì nhu cầu về năng lượng cũng tăng theo. Chính vì vậy, cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu năng lượng theo hướng sạch và tái tạo. Nhưng việc thay thế dạng năng lượng mới đòi hỏi thời gian, cải tạo cơ sở hạ tầng và trình độ của người dân. Thực tế hiện nay cho thấy, công nghiệp dầu khí vẫn giữ vị trí hàng đầu trong tỷ phần năng lượng sơ cấp của thế giới và Việt Nam trong thời gian dài vài thập niên tới. Ngành công nghiệp dầu khí không chỉ là ngành năng lượng mà còn là ngành tiên phong về công nghệ chế biến sâu.
Trước sức ép hội nhập, yêu cầu nâng cao hiệu quả và năng suất, năng lực, trí tuệ và sức sáng tạo, nâng cao tính cạnh tranh, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam cần có sự bứt phá, nhanh chóng thích ứng với các yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Mọi sự chậm trễ sẽ dẫn tới tụt hậu, mất sức cạnh tranh.
Trong thời điểm hiện nay, nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu là tái cấu trúc PVN theo hướng bảo đảm thực hiện hiệu quả các mục tiêu trung hạn và dài hạn; tập trung nguồn lực ưu tiên đầu tư vào các dự án sinh lợi cao và nhanh, xây dựng chuỗi giá trị dầu khí hoàn chỉnh theo Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị. Đồng thời, cần hoàn thiện cơ chế, đổi mới quản lý, quản trị DN của PVN và các DN thành viên theo chuẩn quốc tế phù hợp với yêu cầu của CMCN 4.0, trong đó cần cơ cấu lại cấu trúc sản phẩm theo hướng tăng tỷ phần sử dụng dầu khí làm nguyên liệu và giảm tỷ phần làm nhiên liệu; ưu tiên phát triển công nghiệp khí hoàn chỉnh, vì khí thiên nhiên là dạng năng lượng sạch, hiệu quả sử dụng cao, ít gây hiệu ứng nhà kính. Bên cạnh đó, ứng dụng và phát triển công nghệ mới sẽ nâng cao năng suất, tối ưu hóa sử dụng tài nguyên dầu khí. Sản xuất các sản phẩm dầu khí theo chế biến sâu, có giá trị sử dụng cao, rẻ và chất lượng...
Tuy vậy, để có thể thực hiện những nhiệm vụ trước mắt, ngành Dầu khí đang gặp phải một số khó khăn, thách thức như nguồn lực yếu, bị phân tán, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển; cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng khả năng nghiên cứu ứng dụng và phát triển các giải pháp công nghệ cao theo xu hướng CMCN 4.0...
Để giải quyết những khó khăn đó, điều đầu tiên là ngành Dầu khí phải thay đổi quản lý, quản trị DN; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực vận hành, điều khiển các thiết bị, nhà máy, có thể kiểm soát, quản lý được các quy trình công nghệ liên quan.
Bên cạnh đó, ngành Dầu khí rất cần cơ chế, hành lang pháp lý phù hợp với giai đoạn phát triển mới để phát triển bền vững.
PGS.TS Trần Kim Chung - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - nhận xét: Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta cần phải quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngành Dầu khí hơn ai hết đã ý thức được điều đó vì chúng ta không chỉ làm trong nước, không chỉ làm với nhau mà còn phải làm với các đối tác quốc tế. Điều này đặt ra vấn đề chất lượng nguồn nhân lực phải đủ tốt, phải đủ năng lực, trí tuệ để cạnh tranh thắng lợi.
CMCN 4.0 có thể tạo đột phá cho ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam, tuy nhiên muốn hội nhập hiệu quả và đạt được thành công trong cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi sự đổi mới tư duy trong quản lý và điều hành, thực sự xem KHCN là công cụ quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành Dầu khí.
PVN và các DN thành viên đang triển khai hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về dầu khí, thống nhất định dạng các tài liệu, tiến tới sử dụng, truy xuất tài liệu để ứng dụng vào công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí.
Hiền Anh